(Tổ Quốc) – Thích ứng với sự thay đổi của môi trường sau đại dịch Covid-19, Maldives được coi là ví dụ điển hình về khả năng phục hồi du lịch, Worldbank Blogs đưa tin.
Rita, một nữ doanh nhân trẻ, vừa kết thúc cuộc gặp với khách hàng ở Chennai, Ấn Độ, và dự kiến hai tuần sau sẽ gặp bạn bè ở Singapore trong kỳ nghỉ. Mô hình làm việc từ xa cho phép cô ấy làm việc từ bất cứ đâu. Cô ấy đã chọn làm việc tại một nhà khách ở Maldives vì có kết nối Internet tuyệt vời để gặp gỡ khách hàng trực tuyến một cách thuận tiện. Sau đó, Rita dành thời gian tìm hiểu về văn hóa và ẩm thực địa phương, thậm chí thử lặn với ống thở.
Ảnh: Flickr.com
Trước COVID-19, Rita sẽ phải bay từ Chennai, Ấn Độ đến Chicago đầy tuyết trong 10 ngày; mệt mỏi vì chênh lệch múi giờ; và sau đó bay về phía đông gần 10.000 dặm tới Singapore.
Giờ đây, công việc từ xa không chỉ giúp giảm đáng kể lượng khí thải carbon của cô ấy đối với môi trường mà còn giúp cô ấy cảm thấy tràn đầy sức sống sau kỳ nghỉ ở Maldives, đồng thời vui vẻ hơn và làm việc hiệu quả hơn. Chưa kể, cô còn có nhiều đóng góp cho ngành du lịch của Maldives.
Đây có phải là một dấu hiệu của tương lai của du lịch và công việc?
Trong tiêu điểm Kinh tế Nam Á (SAEF) mới nhất của Ngân hàng Thế giới, các quốc gia trong khu vực phát triển phụ thuộc nhiều vào du lịch như Maldives và ở mức độ thấp hơn là Nepal, Sri Lanka và Bhutan đã tận dụng khai thác các dịch vụ và công nghệ kỹ thuật số mới sau đại dịch. để thúc đẩy phát triển kinh tế.
Du lịch – Cứu tinh cho nền kinh tế hậu COVID?
Trước COVID-19, du lịch là một trong những ngành phát triển nhanh nhất ở Maldives và Bhutan với tốc độ tăng trưởng vượt xa tốc độ tăng trưởng GDP. Đại dịch và các biện pháp kiểm soát nghiêm ngặt liên quan đã tác động mạnh đến tất cả các quốc gia Nam Á phụ thuộc vào du lịch, khiến GDP năm 2020 giảm sâu.
Theo Hội đồng Du lịch và Lữ hành Thế giới, ngành du lịch toàn cầu, đặc biệt là du lịch công tác, đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch.
Trung bình, khách doanh nhân chi tiêu nhiều hơn so với khách du lịch nghỉ dưỡng và khách du lịch nội địa, giúp phục hồi chi tiêu kinh doanh được coi là cần thiết trong lĩnh vực du lịch. Nhiều người kỳ vọng du lịch công tác quốc tế sẽ là giai đoạn phục hồi cuối cùng vì đây là phân khúc nhạy cảm nhất với các hạn chế đi lại.
Các chuyên gia cho rằng du lịch có tiềm năng trở thành ngành phát triển nhanh sau COVID trong bối cảnh nhu cầu làm việc từ xa tăng cao và thói quen du lịch thay đổi. Nhu cầu đi lại rất lớn bị dồn nén trong đại dịch. Khi làm việc từ xa trở thành hiện thực vĩnh viễn, 1/2 số khách du lịch toàn cầu đã bày tỏ sự quan tâm đến việc kéo dài các chuyến công tác hoặc làm việc từ xa tại các điểm đến du lịch trong khi tận hưởng những lợi ích của làm việc từ xa. Tận hưởng phần còn lại trong thời gian rảnh rỗi của bạn.
Tác động tàn phá của COVID-19 đối với sức khỏe tâm thần cũng đang thúc đẩy nhu cầu. COVID-19 đã phần nào làm thay đổi thái độ, hành vi của khách du lịch. Theo khảo sát trực tuyến gần đây của Booking.com, hơn một nửa du khách toàn cầu, đặc biệt là du khách trẻ tuổi, bắt đầu tìm kiếm các kế hoạch du lịch thân thiện với môi trường và gần gũi hơn với cộng đồng địa phương nhưng tránh xa các điểm du lịch đông đúc và khám phá những điểm đến ít được biết đến.
Các quốc gia Nam Á đã và đang có lợi thế trong việc phát triển mô hình du lịch sáng tạo này, đặc biệt là du lịch sinh thái bởi được ưu đãi với nguồn tài nguyên thiên nhiên và văn hóa đa dạng. Do đó, các quốc gia nhỏ và phụ thuộc nhiều vào du lịch có thể coi đại dịch COVID-19 là một cơ hội và coi Maldives là một ví dụ về khả năng phục hồi du lịch. Đến năm 2021, lượng khách du lịch đến Maldives sẽ tăng hơn 80% so với mức trước COVID, bỏ xa các điểm du lịch tương tự khác.
Bài học phục hồi du lịch của Maldives
Thứ nhất, các chính sách, sự vào cuộc của chính phủ và các quy định để ngăn chặn dịch COVID-19 đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phục hồi của ngành du lịch. Ví dụ, Maldives đã nỗ lực phối hợp để mở lại biên giới cho khách du lịch sớm nhất vào tháng 7 năm 2020 nhưng thực hiện các quy trình vệ sinh nghiêm ngặt cho khách du lịch, bao gồm một trong những chiến dịch tiêm chủng COVID-19 nhanh nhất thế giới. Điều này đã cải thiện niềm tin của khách du lịch và đã tạo ra những người tiêu dùng có giá trị cao.
Thứ hai, Maldives đang nhanh chóng nỗ lực để nắm bắt các thị trường nguồn mới và mở rộng sang các quốc gia mới. Ví dụ, các thị trường khách du lịch quốc tế mới nổi từ Nga và Ấn Độ – một phần dựa trên các quy tắc kiểm dịch – đã bù đắp tổn thất doanh thu du lịch từ Trung Quốc – thị trường nguồn hàng đầu của đất nước. điều này trước đại dịch.
Thứ ba, Maldives đã chấp nhận thay đổi sở thích để quảng bá hình ảnh tốt hơn. Năm 2020, Maldives đã khởi động chiến dịch tiếp thị với khẩu hiệu “Sự cô lập chưa bao giờ tốt thế này” nhằm nhấn mạnh danh tiếng độc nhất vô nhị của quốc gia này như một điểm đến phù hợp trong đại dịch Covid-19 đồng thời thúc đẩy du lịch bền vững với môi trường.
Và cuối cùng, Maldives tiếp tục đầu tư mạnh vào công nghệ kỹ thuật số khi nhu cầu về internet tốc độ cao và các dịch vụ không tiếp xúc gia tăng trong đại dịch. Tại Maldives, hơn 60% dân số có quyền truy cập Internet băng thông rộng, trong khi các quốc gia Nam Á phụ thuộc vào du lịch khác tụt lại phía sau, hạn chế khả năng đáp ứng nhu cầu làm việc từ xa của khách du lịch.
Hơn nữa, các nền tảng kỹ thuật số rất quan trọng trong việc giảm thiểu các tương tác vật lý trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu của khách du lịch. Ví dụ: một trong những khu nghỉ dưỡng sang trọng ở Maldives đã phát triển một ứng dụng hỗ trợ các dịch vụ không tiếp xúc bao gồm đặt đồ ăn, nhận và trả phòng ảo và các tiện nghi khác để phục vụ hành khách. những thay đổi của khách hàng.
Theo Worldbank, thích ứng hay bỏ cuộc? Maldives đã chọn yếu tố đầu tiên. Các quốc gia Nam Á khác có thể làm được và xây dựng lại ngành du lịch bền vững hơn sau COVID-19.
[yeni-source src=”” alt_src=”https://kenh14.vn/ Kinh-nghiem-maldives-thich-ung-thanh-cong-phat-trien-du-lich-sau-covid-19-viet-nam -co-the-hoc-hoi-20230715104217556.chn” name=””]