Thỉnh thoảng tôi nhận ra trong những bản tình ca quê hương có những hòa âm được làm bằng tiếng kèn, đủ khiến lòng tôi thổn thức, nhớ đến những con thuyền đổi nước.
Sống ở vùng nhiễm mặn, xung quanh có nước nhưng xóm tôi vẫn thiếu nước. Vào mùa mưa, người ta tận dụng chum, thùng, vại, hồ nước… để trữ nước từ mái nhà. Nước mưa mát, ngọt chỉ để uống và nấu ăn. Gia đình nào cũng có một bé gái sơ sinh được yêu thương đến mức tắm dưới nước mưa với mong muốn làn da của bé khi lớn lên sẽ trắng sáng.
Dù tiết kiệm tối đa nhưng lượng nước Chúa cung cấp cũng không thể đủ cho 6 tháng mùa khô. Chúng ta phải mua nước. Điều lạ là ở đây mọi thứ trao đổi bằng tiền đều gọi là mua bán chứ không phải bằng nước ngọt. Người ta gọi đó là trao đổi nước.
Những chiếc thuyền gỗ mui trần vận chuyển nước đi trao đổi được chăm chút rất kỹ lưỡng. Người ta tỉ mỉ phủ lên toàn bộ thân tàu một lớp dầu chai cả bên trong lẫn bên ngoài. “Áo bảo vệ” này đảm bảo nước sông không thể thấm vào nước ngọt mà tàu đang vận chuyển. Trên tàu có 2 động cơ, động cơ công suất lớn đặt ở vị trí lái, vận hành chính. Chiếc máy có công suất nhỏ hơn một chút được đặt ở mũi, bơm nước đến các khu vực chứa cần thiết. Mỗi chiếc thuyền đều có một đống ống nhựa mềm dài vài chục mét để chở nước, được cuộn cẩn thận trên nóc.
Hình ảnh chỉ mang tính chất minh họa – Beo.Ai |
Hàng tháng, khi lọ dần dần cạn kiệt, mẹ tôi lau chùi sạch sẽ và đưa tiền cho tôi, bảo tôi ở nhà hôm sau thay nước. Cha mẹ tôi hàng ngày đều ra đồng. Khi tôi khoảng 8 tuổi, vào những ngày nghỉ học, tôi chăm sóc các em và làm quản gia. Đưa cô ấy đi ngủ xong, tôi cầm tiền chạy ra bờ sông, chờ tiếng còi ngày càng to.
Sừng được làm bằng sừng trâu. Người ta khoét một lỗ ở đầu nhọn, cho vào miệng thổi, sẽ phát ra âm thanh to, sâu, vang xa. Một nhóm người thay nước thường có 3 người. Người lái đò còn bấm còi báo hiệu cho mọi người sắp đến và sẵn sàng đổ đầy nước vào thùng.
Đợi tàu chở nước tới gần, tôi ném vài cục đất xuống sông để báo hiệu. Họ lập tức tắt máy và lái tàu vào bờ. Một người vác đầu ống vội nhảy lên bờ chạy vào ngõ nhà tôi. Một người đứng ở mũi thuyền, phối hợp nhịp nhàng để cố định đường ống sao cho không bị chéo, xoắn. Khi đầu ống sắp chạm vào miệng kiệu thì người đàn ông hét lớn: “Bơm!”. Dòng nước trong vắt lập tức tuôn ra. Người thợ sửa ống nước đổ nước vào các lọ rồi vẫy tay ra hiệu ngừng bơm.
Trong khi người điều khiển máy bơm đứng trên tàu để lấy ống thì người công nhân nước đi vòng quanh dãy kiệu, nhẩm tính toán lượng nước và quy đổi thành tiền. Đơn vị tính là gấp đôi. 1 đôi tức là 2 hộp, mỗi hộp 25 lít. Kiệu nhỏ đựng được 4 đôi nước, kiệu lớn đựng được 6 đôi nước. Nhà tôi có hơn chục chiếc lọ lớn nhỏ như thế. Tôi cũng phải nhẩm đếm xem người thợ sửa ống nước có tính đúng hóa đơn hay không. Cuối cùng, tôi cẩn thận đóng nắp lọ lại sao cho thật khít, tránh bụi bẩn và côn trùng xâm nhập.
Số tiền bỏ ra cho việc thay nước hàng tháng không phải là nhỏ. Vì vậy, nước ngọt rất quý giá đối với mọi người trong xóm, như gạo và những thực phẩm cần thiết nhất. Xóm nhỏ ven sông vắng lặng, không có người qua lại, hàng ngày chỉ có tiếng động cơ thuyền vang vọng trên sông. Xen kẽ giữa âm thanh ồn ào của động cơ diesel là tiếng còi và âm trầm đầy uy lực. Có điều gì đó thúc đẩy trong tiếng tù và, giống như một mệnh lệnh uy nghiêm của người dẫn đầu một đội quân. Không hiểu sao nó lại được chọn làm âm thanh thông báo cho tàu thuyền đổi nước.
Trong những năm đó, tiếng tù và lướt trên sông mỗi ngày cứ vang vọng trong tâm trí tôi ngay cả khi tôi đang ngủ. Khi thôn nhỏ bắt đầu có giếng khoan, thuyền nước dần biến mất. Từng tiếng còi, tiếng ầm ầm trên mặt sóng cũng biến mất.
Thỉnh thoảng tôi nhận ra trong những bản tình ca quê hương có những hòa âm được tạo nên từ tiếng kèn. Mỗi lần nghe đến, dù chỉ là một hơi thở nhỏ, ngắn ngủi cũng đủ khiến lòng tôi thổn thức, nhớ đến những chiếc thuyền đổi nước.
Viet Quynh
[yeni-source src=”” alt_src=”https://www.phunuonline.com.vn/tieng-tu-va-doi-nuoc-a1509351.html” name=””]