Bà nói to trong nước mắt như để giải tỏa bao đau khổ giấu kín trong lòng: “Ta không phải là vợ lẽ. Chồng tôi đánh Dinh Độc Lập. Tôi không phải là vợ lẽ.” Những đứa trẻ cũng lao ra đường khóc cười cùng mẹ.
Rạng sáng ngày 30-4-1975, các bộ phận chủ lực của quân ta đồng loạt tấn công vào trung tâm Sài Gòn. Bà. Đặng Thị Thiệp (Đặng Thị Tuyết Mai, vợ Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Trần Văn Lai) đã mở toang cánh cửa đón bình minh mới của non sông.
Chợt nàng nói to trong nước mắt như để giải tỏa bao nhiêu đau khổ giấu kín trong lòng: “Ta không phải thiếp. Chồng tôi đánh Dinh Độc Lập. Tôi không phải là vợ lẽ.” Những đứa trẻ cũng ùa ra đường, khóc cười với mẹ, rồi lấy hết trà bánh, hoa quả đãi bộ đội.
Bà. Đặng Thị Thiệp, Mr. Trần Vũ Bình hồi tưởng về cuốn album ảnh và những kỷ vật thời chiến. |
Bị khinh bỉ, trù dập để… diễn tròn vai
Nỗi bất công khi làm “đàn bà bé nhỏ, níu kéo đàn ông” đè nặng lên tôi. Đặng Thị Thiệp nặng lòng từ tuổi 20. Năm 1965, Biệt Động Quân Trần Văn Lai (con Mai Hồng Quế, C-Trưởng Biệt Động Quân, thuộc Đơn Vị 159 Biệt Động Quân). Quân khu Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định) được giao nhiệm vụ đào địa đạo ở trung tâm thành phố để bí mật cất giấu vũ khí chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công. Anh xin phép được cử một đồng đội trẻ cùng mình thực hiện trọng trách này.
Đối với chị Thiệp, ấn tượng về chú Năm Lai là một người dễ mến, sẵn sàng mua đồ khi chị hỏi. Trong chuyến đi từ Tây Ninh vào Sài Gòn, ông ghé nghĩa trang Việt Bắc (nay thuộc Q.Tân Bình, TP.HCM), dừng lại rất lâu bên mộ một nữ chiến sĩ, lặng lẽ thắp nén nhang. Lát sau, một đồng đội trẻ hồn nhiên hỏi: “Chú ơi, vợ chú đâu?”. Ông. Nam Lai đáp: “Tôi đã khiêng ra nghĩa địa rồi, còn hỏi nữa”.
Đây là mộ của vợ ông – bà Phạm Thị Chinh (Phạm Thị Phan Chinh), nữ cán bộ, chiến sĩ hoạt động tại trung tâm thành phố trong giai đoạn đầu của biệt kích Sài Gòn, hy sinh năm 1964. Nhưng để đảm bảo cô ấy thực hiện nghĩa vụ công ích thì không được phép. Chính vì vậy, khi Mr. Nam Lai với tôi. Thiệp phải có vợ thì mối quan hệ này mới được coi là “cương”.
Vào vai một tỷ phú mua nhà cho vợ, Mr. Tranh thủ lúc nhà mới mua cần sửa sang, trang trí cho “tổ ấm tình yêu trong lòng đất”, ông bà và đồng đội đã mưu trí, dũng cảm đào hầm, lặng lẽ chuyển đá, vận chuyển vũ khí về bằng ô tô. Nhan sắc của tỷ phú Mai Hồng Quế. Khi đó ông là nhà thầu chuyên xây dựng và trang trí nội thất cho Dinh Độc Lập, U.Som và các cơ quan đầu não của chính quyền Sài Gòn.
Bà Thiệp ở tuổi 80 vẫn nhớ và kể chuyện xưa. Sau trận tấn công Dinh Độc Lập Tết Mậu Thân 1968, doanh nhân Mai Hồng Quế bị lộ diện, bị lục soát và tịch thu hầu hết nhà cửa. Một mình trong căn hầm bí mật còn lại ở số 720 Võ Di Nguy (nay là đường Nguyễn Kiệm, Q.Phú Nhuận, TP.HCM), bà. Chị Thiệp hàng ngày chắt chiu từng can xăng để nuôi các con.
Là vợ lẽ Mrs. Thiệp ngậm đắng nuốt cay trước những lời giễu cợt, thách thức hay bắt nạt. Có lần một nữ công an giật can xăng chửi: “Mày cướp chồng người ta sao tao không cướp?”. Máu hận sôi lên, nhưng bà Thiệp kìm lại được khi nghĩ: “Mình đóng vai người ta tưởng mình là đàn bà thật. Nhiệm vụ là trên hết.”
Ông. Trần Vũ Bình (làm công tác kiểm sát, con thứ ba của ông bà Trần Văn Lai – Đặng Thị Thiệp) tự nhủ: “Gia đình tôi là gia đình “4 không”: bố mẹ không cưới không đeo. trang phục, con cái Không một đứa trẻ nào được nói tiếng cha đẻ, không được theo họ mẹ, không có ngày tháng năm sinh chính xác của trẻ em được ghi trên giấy tờ.” Bà Thiệp quay sang con trai với vẻ hơi ngượng ngùng nói: “Chiến tranh con khổ lắm, không biết con chịu sao được”.
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Trần Văn Lai bên các con sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước |
Ngụy trang danh tính của bạn, ngụy trang trái tim của bạn
Vì rất nổi tiếng nên mỗi khi nhớ vợ con, Mr. Nam Lai về nhà phải hết sức cẩn thận. Để tránh “bức tường đầu rừng”, chị dạy các con gọi bố là “má Bình” (hoặc bằng chú). Khi đó, mặc dù Mr. Bình vẫn gọi “mẹ Bình” như kịch bản là bà Bình. Bà Thiệp vẫn lo sợ sự hoạt bát quá mức của con trai sẽ dễ bị hàng xóm phát hiện.
Một lần nàng linh cảm mình gặp chuyện không may, hắn lén trở về, quả nhiên nàng vẫn còn mang thai. Bỗng có tiếng công an gõ cửa, khám xét nhà, cô yếu quá không thể đội nắp hầm trốn anh như thường lệ. Anh lập tức đu lên mái nhà, nơi có đường hầm nổi được anh thiết kế rất đặc biệt. Các cảnh sát nhìn quanh, thấy người phụ nữ bê bết máu, biết có liên quan đến cái thai, họ sợ xảy ra tai nạn và quay mặt đi.
Cũng vì sợ bị lộ, bà L. Thiệp nhốt con trong nhà, tránh cho lời nói ngây thơ của con tiết lộ bí mật. Cánh cửa chỉ được mở vào buổi sáng lịch sử của ngày 30 tháng 4 năm 1975, cho nắng gió tràn vào nhà, cho lũ trẻ chạy ra đường và cũng để gột rửa những oan ức 10 năm của gia đình biệt kích.
Chỉ vài tuần sau giải phóng, Mr. Nam Lai trở về nhà và ăn bữa cơm đầu tiên với gia đình. Ông đã bù đắp bằng cách quét sạch quân địch và trồng lại và tiếp quản, giao cơ sở vật chất cho chính quyền ta. Tiếng gọi “chú” đã ăn sâu, lũ trẻ lại bắt đầu tập đi, vui biết bao, lâng lâng và có chút ngượng ngùng. Có người gọi chú, có người gọi bố, có người gọi bố, bố… Những ý nghĩ về ngày đoàn tụ gia đình đã không còn là trở ngại. Nhưng trong khi những đứa trẻ khao khát tiếng gọi của cha thì đáp lại chỉ là thái độ lạnh nhạt, xa cách.
Những ngày đó, anh em Bình rất buồn khi nghĩ rằng bố sẽ không nhận mình là bố. Một vài người bạn cũng phản đối: “Con nít như mày mà bảo không phải con mình thì con ai?”.
Với cô, anh cũng rất “hào phóng” với những cử chỉ chia sẻ, lời yêu thương; vừa lo công việc, nhiệm vụ vừa trả nợ ân tình đồng đội. Sau khi hiến gần hết nhà cửa và tiền vàng cho cách mạng, lương của ông ở Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh không đủ nuôi gia đình. Để lo cho con ăn học và chu cấp cho họ hàng nhà chồng, chị phải bươn chải đủ thứ nghề, từ bán rau má, đậu phộng, thịt cua đến chạy xe ôm ở chợ.
Có thời gian, chị gặp nhiều áp lực, làm việc quá sức nhưng bị chồng lạnh nhạt, chị tức giận bỏ đi huyện khác sống. Được biết, cần xé giống của đàn vịt đã mọc um tùm, há miệng và nở ra một chú vịt con cứ kêu éc éc, éc éc rồi chạy ra khỏi nhà khiến hai anh em phải chạy đuổi theo, đuổi theo.
Nhân cơ hội này, anh ấy đã tổ chức một chuyến đi gia đình, nhưng anh ấy không đi cùng (anh ấy đi riêng và đến sau). Những đứa trẻ thất vọng và bực bội không hiểu tại sao cha chúng vẫn tiếp tục từ chối chúng, không yêu thương chúng. Thậm chí, có lúc anh tận dụng “cơ hội ngàn vàng” bị ốm, bị trầy xước, bị thương… để động lòng thương cha nhưng trái tim anh như bị bọc trong một khối băng dày, không thể chạm vào.
Cho đến một ngày những người con tận mắt chứng kiến cha mình lưu lạc trong thời bình do quân giặc rình rập, nỗi lòng của người cha gánh trên vai một nhiệm vụ chông gai mới hiểu được tình cha bao la ẩn chứa. vẻ nghiêm khắc, lạnh lùng. Với bản năng được hình thành từ thói quen đã được rèn luyện của một sĩ quan tình báo, anh luôn lạnh lùng, cảnh giác và không bao giờ bộc lộ cảm xúc thật của mình. Anh khao khát hạnh phúc giản dị được làm chồng, làm cha nhưng anh luôn tạo cho mình một bức tường, một khoảng cách đủ để bảo vệ sự an toàn cho vợ con.
Với anh chị Vũ Bình, tình thương của người cha quá cố vẫn còn đọng lại trong hương vị phở. Nhớ lần anh mua tô phở về nhà, lũ trẻ reo hò vì sắp được ăn một bữa thịnh soạn khi anh đổ tô phở vào nồi, nước sôi đầy cả nồi. Bát phở kiểu “thông minh” bỗng thành nồi nước phở dở. Lũ trẻ mời ông ăn, ông vẫy tay nói “anh ăn rồi” rồi lặng nhìn lũ trẻ húp xì xụp bên đĩa cơm trắng, bát bún. Với việc gợi nhớ hương vị phở xưa, Mr. Bình đỏ hoe mắt tin tưởng: “Chắc bố ăn trong trí tưởng tượng của nó rồi. Đây là thằng tình báo bố giấu mình quen, thương nó mà không biểu lộ ra ngoài.
Tô Diệu Hiền
Chạy đua với thời gian, giải cứu và phục hồi tàn quân Biệt động Sài Gòn Hơn 30 năm qua, ông Trần Vũ Bình đi tìm những chiếc xe, đồ vật, nhà cửa liên quan đến những di tích lịch sử của biệt động Sài Gòn nói chung, với cuộc đời hoạt động cách mạng của cha mẹ ông và bà Phạm Thị Chính nói riêng. Dù gian nan, khó khăn, tốn kém hay nhiều người cản trở, ông vẫn quyết tâm vén màn quá khứ để gìn giữ và khôi phục nó. Ông đã biến những tàn tích của Biệt động Sài Gòn thành bảo tàng, nơi dừng chân tham quan, tìm hiểu thêm về lịch sử và phục vụ ăn uống cho thực khách trong nước và quốc tế. “Làm để trả lại những gì đã qua, cho những người đã ra đi. Làm hết, trả hết. Nếu câu chuyện lịch sử này bị thất lạc thì thật là đau lòng!” – Ông. Vũ Bình chia sẻ.Tự hào về truyền thống của gia đình, dân tộc, con cháu của bà cũng trở thành những người dẫn đường cho những người còn sót lại, ngày ngày truyền bá tình yêu thương, lòng biết ơn đối với những người đã cống hiến thân mình cho độc lập và hòa bình thế giới. chào nhân |
[yeni-source src=”” alt_src=”https://www.phunuonline.com.vn/mot-doi-en-nuoc-no-tieng-con-oi-a1490576.html” name=””]